Thứ Hai, 8 tháng 7, 2013

Hiệu quả phòng và trị bệnh đau xương khớp

Đau khớp và thoái hóa khớp là căn bệnh rất hay gặp trên lâm sàng, được chẩn đoán như là: thoái hóa đốt sống; vôi hóa xương đốt sống; thoái hóa khớp gối, vai hay bất kỳ khớp nào.

Cần chữa trị bệnh đau khớp an toàn và hiệu quả:

Thoái hóa khớp gây đau và biến đổi kết cấu khớp, biến dạng khớp có thể dẫn tới tàn phế, ảnh hưởng nặng nề đến sinh hoạt và chất lượng cuộc sống. Nếu được chẩn đoán và điều trị sớm sẽ làm chậm mở mang của bệnh, giảm đau điếng và duy trì sinh hoạt bình thường cho bệnh nhân.

Biểu hiện: 1/ Đau: Đau tại chỗ ít khi lan; 2/ giới hạn hoạt động: Các động tác của khớp bị thoái hóa bị giới hạn mức độ giới hạn không nhiều; 3/ Có thể có biến dạng khớp, teo cơ, tiếng lạo xạo hoặc tràn dịch ổ khớp.

Trước đây, điều trị hoái hóa khớp cốt lõi là sử dụng các thuốc kháng viêm giảm đau (NSAID) nhằm làm giảm các triệu chứng đau và chống viêm. Tuy thế những thuốc này có rất nhiều tác dụng phụ khác thường trên đường tiêu hóa ví dụ như chảy máu bao tử… mà không nâng cao được tình trạng tổn thương của sụn khớp bị hư đốn do quá trình thoái hóa gây ra.

Ngày nay, người ta đã sử dụng sự kết hợp Glucosamine, Chondroitin và một vài hoạt chất khác để điều trị thoái hóa khớp. Một sản phẩm nhập khẩu từ Hoa Kỳ có hiệu quả cao trong phòng và trị đau, thoái hóa khớp đó là Hyalob. Hyalob kết hợp bốn thành phần như sau 1. Glucosamine: có rất ít tác dụng phụ khi sử dụng. Một số trường hợp dị ứng không đáng kể đối với người có cơ địa quá mẫn cảm với thuốc. Glucosamine đã được cơ quan Dược phẩm châu Âu (EMEA) đưa vào danh mục thuốc giúp cải thiện cấu trúc trong bệnh thoái hóa khớp, viêm khớp. Nghiên cứu so sánh Glucosamine với các dạng thuốc kháng viêm, giảm đau không steroid (NSAID), cho kết luận như sau: 1.1 cải thiện triệu chứng như đau, tầm độ khớp: Glucosamine tương đương với NSAID trong thời gian ngắn và vượt trội hơn hẳn nếu uống thuốc trong thời gian dài1.2. Tính an toàn: Glucosamine hơn hẳn với các loại thuốc nhóm NSAID vì nhóm này luôn luôn có rất nhiều tác dụng phụ như rối loạn tiêu hóa, chảy huyết dạ dày, phù mặt, suy thận 1.3. Khi bắt đầu điều trị, kết hợp Glucosamine và NSAID sẽ cho thành quả tốt hơn khi sử dụng lẻ loi NSAID trong thời gian ngắn (5-7 ngày). Sau đó ngưng NSAID, tiếp tục dùng Glucosamine thì năng lực cải thiện vẫn tiếp tục được duy trì theo kiểu tuyến tính 1.4. Sử dụng NSAID, những ích lợi giảm triệu chứng cho người bệnh sẽ khẩn trương mất đi ngay sau khi ngưng thuốc. Ngược lại, ngưng uống Glucosamine tác dụng nâng cao vẫn tiếp tục kéo dài trong nhiều tháng sau đó 1.5. Với những người bệnh tuân thủ phác đồ chữa trị sử dụng Glucosamine càng dài thì lợi ích kinh tế càng lớn vì tính an toàn và hiệu quả của nó càng được phát huy.

2. Chondroitin (sụn vi cá mập): tăng cường nuôi dưỡng sụn đồng thời bình phục và duy trì dịch ổ khớp, khi kết hợp cùng với Glucosamine sẽ giúp cho sụn tăng cường giữ nước nhờ đó tăng khả năng đàn hồi của sụn 3. MSM: Là một sulfur tự nhiên, giúp khớp vận động dễ dãi hơn, đồng thời tăng cường nuôi dưỡng khớp 4. Hyaluronic axit: có vai trò làm tăng độ nhớt của dịch ổ khớp và tăng nuôi dưỡng và che chở sụn. Người ta còn sử dụng Hyaluronic axit để tiêm trực tiếp vào ổ khớp trong một số trường hợp thoái hóa khớp nặng. Dẫu vậy, đây là một thủ thuật y khoa cần được thực bây giờ những trung tâm lớn về xương khớp, do các Bác sỹ chuyên khoa có kinh nghiệm thực hiện. Việc tiêm cũng rất tốn kém và chỉ thực hiện được trên một vài khớp nhất mực.

Hyalob được sử dụng trong các bệnh khớp có tổn thương sụn như: Đau, thoái hóa khớp, chẳng những thế Hyalob cũng được sử dung trong thấp khớp,viêm khớp, chấn thương khớp, gút… Nhờ sự phối hợp độc đáo cả bốn thành phần trên, HYALOB được dùng rộng rãi tại Hoa Kỳ và nhiều nước trên thế giới trong hhox trợ chữa trị và dự phòng thoái hóa khớp và các bệnh có tổn thương sụn khớp. Hiệu quả giảm đau thường bắt đầu sau 10-15 ngày dùng. Khi đau nhiều, bệnh nhân nên phối hợp Hyalob với một thuốc giảm đau (NSAID) ví dụ như Meloxicam, Piroxicam… trong một tuần đầu, sau đó tiếp tục sử dụng Hyalob thêm 3-5 tuần nữa thì sẽ cho thành quả cao nhất. Nếu đau ít, bệnh nhân nên sử dụng Hyalob đơn thuần để tránh tác dụng phụ của nhóm thuốc NSAID.
Nên sử dụng Hyalob trong ít nhất 4-6 tuần mỗi đợt, với liều thông thường là 2-3 lần/ ngày, mỗi lần 1 viên, sau khi ăn, mỗi năm bốn đợt. Cũng có thể dùng hàng ngày, hàng giờ hoặc theo hướng dẫn của Bác sỹ.

Kiến thức về căn bệnh thoái hóa đốt sống thắt lưng và thoát vị đĩa điệm vùng thắt lưng.

Bây giờ người ta không khó khăn gì để có thể tìm hiểu những thông tin có liên quan đến bệnh lý thoái hóa đoạn đoạn đốt sống thắt lưng ( thoái hóa xương cột sống ) hay còn có thể gọi đây là căn bệnh thoát vị đoạn đoạn đoạn đoạn đốt sống lưng, nhiều tin tức thiết thực từ những phương tiện truyền thông hoặc từ chính những người đã từng trải qua bệnh lý này.

Căn bệnh thoái hóa đoạn đoạn đốt sống thắt lưng và thoát vị đĩa điệm vùng lưng dưới.

Bạn đã từng bị thoát vị đĩa đệm chưa ? Thật ra đại đại đa phần mọi người hiện nay cũng còn rất mơ hồ về căn bệnh này tuy là nó đã không còn mới mẽ gì với ta. Thoát vị vùng lưng dưới chính là do thoái hóa các đoạn đoạn đoạn đoạn cột sống lưng trong thời gian dài gây lên. Đại đại đa số chúng ta thường không nhận biết ra bệnh và chỉ khi xuất hiện những cơn đau triền miên kéo dài và đã có sự tương trợ của bác sĩ.

Đa phần để giảm đau tạm thời người ta thường sử dụng những biện pháp thường thường như chườm khăn nóng hoặc sử dụng thuốc giảm đau, thế nhưng những cách trên cũng có thể là căn nguyên tạo lên cơn đau nặng thêm. Nếu thật sự bạn mắc phải bệnh thì bạn cần phải được chữa trị thích hợp hơn. Nhưng để có biện pháp điều trị phù hợp thì bạn cần phải biết rõ nguồn gốc của chúng là gì ? lý do và các triệu chứng gây ra bệnh và cách điệu trị bệnh ra sao?.  Thật ra thoát vị đĩa đốt sống chính được gây ra bởi sự thoái hóa cột sống ảnh hưởng đến từng đĩa điệm là nguyên nhân tạo ra bao xơ của đĩa điệm trở thành dòn hơn theo thời gian, và dưới trọng lực của cơ thể áp bức lên là nguyên cớ tạo ra bao xơ bị rách giải phóng nhân nhày bên trong ra ngoài gây ra tình trạng thoát vị. Thoái hóa vùng lưng sẽ tạo lên thoát vị đĩa đệm vùng lưng, những dấu hiệu thường thấy nhất khi bị bệnh này là : những cơn đau âm ỉ kéo dài hoặc đau càng càng càng càng càng càng ngày một có những lúc phải đứng lâu hay co gập người, đau khốc liệt hay tăng dần khi ho, hắt hơi. Căn nguyên chính gây ra thoát vị vùng thắt lưng thường được gây ra bởi chấn thương hoặc không dứt khuân vác vật nặng, di truyền ,….

Để điều trị bệnh này ngoài những cách thông thường như chườm đá lạnh, uống thuốc giảm đau, thì chúng ta cần phải phối hợp với những biện pháp khác như : vật lý trị liệu để lành bệnh đĩa điệm, làm giảm áp lực nhân đĩa điệm có công dụng giải phóng dây thần kinh bị áp bức. Bên cạnh đó để việc điều trị mang lại hiệu quả chúng ta cần phải phối hợp chế độ ăn uống, nghỉ ngơi hợp lý và không dứt vận động để có thể khẩn trương hết bệnh và cột sống bền vững.

Thông tin chi tiết về chữa trị bệnh thoát vị đĩa đệm hiệu quả từ thảo dược tươi.

Thứ Ba, 2 tháng 7, 2013

Nỗi lo bệnh trượt đốt sống

Trượt đốt sống là bệnh thường gặp, xảy ra chủ yếu ở vùng cột sống thắt lưng. Một người có thể bị trượt đốt sống do một trong các nguyên nhân sau đây: bẩm sinh, bị rối loạn phát triển, với đặc điểm là các khiếm khuyết về giải phẫu của mấu khớp như: thiểu sản mấu khớp, định hướng của khe khớp nằm trên mặt phẳng hướng ra sau, thường có dị tật gai đôi cột sống; thiểu sản mấu khớp, định hướng của khe khớp nằm trên mặt phẳng hướng vào trong. Do khe hở eo, khuyết eo do gãy, do hiện tượng gãy xương và liền xương xảy ra liên tục ở vùng eo, chấn thương làm gãy eo gây trượt. Do thoái hoá chủ yếu ở vị trí L4-5, thường gặp ở phụ nữ tuổi từ 40-50, thoái hoá cột sống nhất là thoái hoá đĩa đệm và các mấu khớp, làm mất tính vững chắc của cột sống gây nên. Do bệnh lý như: nhiễm khuẩn, ung thư làm hoại tử hay phá hủy các cấu trúc của cột sống; bệnh vôi hóa đốt sống. Do chấn thương làm gãy cuống, gãy mấu khớp dẫn tới mất vững cột sống. Do phẫu thuật cắt cung sau kèm theo cắt bỏ các mấu khớp.

Bạn có thể phát hiện được bệnh trượt đốt sống căn cứ vào các dấu hiệu sau: bệnh nhân có biểu hiện mất vững cột sống và chèn ép các rễ thần kinh. Người bệnh đau cột sống thắt lưng âm ỉ liên tục, đau tăng khi cột sống phải chịu lực như khi đứng, đi bộ, lao động…nhưng nằm nghỉ thì hết đau hoặc đau giảm hẳn. Khi bệnh nhân thay đổi tư thế cũng gây đau cột sống, phải chống tay vào đùi khi đứng lên. Nếu bệnh nặng thường có thay đổi tư thế thân người và dáng đi. Ở vùng cột sống thắt lưng có thể có biến dạng lõm, gọi là dấu hiệu bậc thang, dấu hiệu nhát rìu… Có bệnh nhân bị đau cách hồi, đây là triệu chứng đau đặc trưng của bệnh: đau khi đi bộ, vì đau phải dừng lại, hết đau mới đi tiếp, đang đi vì đau lại phải nghỉ, hết đau lại đi. Đối với bệnh nhân bị chèn ép rễ thần kinh, họ thường đau cả khi nằm nghỉ. Bệnh nhân bị hẹp lỗ ghép thần kinh được cho là nguyên nhân chèn ép rễ hay gặp nhất. Lỗ ghép hẹp là do các yếu tố như sự lồi vào của bờ sau thân đốt và đĩa đệm, tình trạng khớp giả và tổ chức xơ từ khe hở eo, một phần do cột sống thường xoay nhẹ làm cho lỗ ghép hẹp hơn ở một bên. Số ít bệnh nhân vì tổ chức xơ quá phát từ khe eo rất nhiều trở thành nguyên nhân gây chèn ép rễ thần kinh. Các nguyên nhân chèn ép rễ khác ít gặp hơn như thoát vị đĩa đệm tại mức trượt hay là ở vị trí lân cận các đốt sống trượt. Đối với bệnh nhân trượt đốt sống do thoái hoá, tình trạng chèn ép rễ thần kinh do hẹp lỗ ghép khá phổ biến. Chụp Xquang, chụp cắt lớp, chụp cộng hưởng từ xác định được mức độ trượt, mức độ thoái hoá của cột sống và nguyên nhân gây chèn ép thần kinh. Chụp cộng hưởng từ còn đánh giá được tình trạng hẹp lỗ ghép.